Giáo án Ngữ văn Lớp 10 - Tuần 29: Trao duyên (Trích “Truyện Kiều” - Nguyễn Du) - Phạm Thị Mỹ Phước

Giáo án Ngữ văn Lớp 10 - Tuần 29: Trao duyên (Trích “Truyện Kiều” - Nguyễn Du) - Phạm Thị Mỹ Phước

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

- Hiểu diễn biến tâm trạng đầy mâu thuẫn, phức tạp, bế tắc của Thúy Kiều trong đêm trao duyên. Qua đó thấy được sự đồng cảm mạnh mẽ, sâu sắc của Nguyễn Du đối với hoàn cảnh đau khổ và phẩm chất cao quý của Kiều: giàu đức hi sinh, lòng vị tha.

- Cách sử dụng ngôn từ điêu luyện, tuyệt vời cùng với sự kết hợp ngôn ngữ dân gian và bác học đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật hết sức tài tình của Nguyễn Du.

2. Kỹ năng:

- Đọc thơ trữ tình, thể lục bát; chuyển thể văn bản thơ sang văn bản văn xuôi nghệ thuật; phân tích tâm trạng nhân vật trong thơ trữ tình; trình bày miệng lời giảng - bình của bản thân.

3. Thái độ:

- Từ tấm gương phẩm hạnh của Kiều, giáo dục cho HS lòng kính yêu cha mẹ, anh chị em trong gia đình, tình yêu chung thủy và sự quan tâm chăm sóc chu đáo đối với người mình yêu ngay cả khi bản thân phải chịu sự hi sinh thiệt thòi.

B. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

- Phương pháp: đọc sáng tạo, gợi tìm, nêu vấn đề, tái tạo.

- Sử dụng phối hợp các biện pháp: cắt nghĩa, so sánh, giảng bình.

C. CHUẨN BỊ BÀI HỌC

1. Chuẩn bị của giáo viên: Sách giáo khoa, Sách giáo viên, Sách thiết kế, Giáo án.

2. Chuẩn bị của học sinh: Sách giáo khoa, Chuẩn bị bài theo câu hỏi hướng dẫn trong SGK.

 

docx 14 trang yunqn234 10310
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn Lớp 10 - Tuần 29: Trao duyên (Trích “Truyện Kiều” - Nguyễn Du) - Phạm Thị Mỹ Phước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Bài dạy: TRAO DUYÊN
(Trích “Truyện Kiều”- Nguyễn Du)
Họ và tên sv: Phạm Thị Mỹ Phước
Lớp: D17NV01
Ngành: Sư phạm ngữ văn
Môn học: Phương pháp dạy học văn
MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức:
- Hiểu diễn biến tâm trạng đầy mâu thuẫn, phức tạp, bế tắc của Thúy Kiều trong đêm trao duyên. Qua đó thấy được sự đồng cảm mạnh mẽ, sâu sắc của Nguyễn Du đối với hoàn cảnh đau khổ và phẩm chất cao quý của Kiều: giàu đức hi sinh, lòng vị tha.
- Cách sử dụng ngôn từ điêu luyện, tuyệt vời cùng với sự kết hợp ngôn ngữ dân gian và bác học đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật hết sức tài tình của Nguyễn Du.
2. Kỹ năng: 
- Đọc thơ trữ tình, thể lục bát; chuyển thể văn bản thơ sang văn bản văn xuôi nghệ thuật; phân tích tâm trạng nhân vật trong thơ trữ tình; trình bày miệng lời giảng - bình của bản thân.
3. Thái độ: 
- Từ tấm gương phẩm hạnh của Kiều, giáo dục cho HS lòng kính yêu cha mẹ, anh chị em trong gia đình, tình yêu chung thủy và sự quan tâm chăm sóc chu đáo đối với người mình yêu ngay cả khi bản thân phải chịu sự hi sinh thiệt thòi.
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
- Phương pháp: đọc sáng tạo, gợi tìm, nêu vấn đề, tái tạo.
- Sử dụng phối hợp các biện pháp: cắt nghĩa, so sánh, giảng bình.
CHUẨN BỊ BÀI HỌC
1. Chuẩn bị của giáo viên: Sách giáo khoa, Sách giáo viên, Sách thiết kế, Giáo án.
2. Chuẩn bị của học sinh: Sách giáo khoa, Chuẩn bị bài theo câu hỏi hướng dẫn trong SGK.
TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
1. Kiểm tra bài cũ
2. Bài mới
* Giới thiệu bài mới: 
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Đó chính là tiếng lòng của Nguyễn Du, nhà thơ đã bày tỏ sự đồng cảm, thương xót với những con người tài hoa mà bạc mệnh trong xã hội phong kiến xưa, đặc biệt là những người phụ nữ. Thúy Kiều cũng là một người tài hoa, đức hạnh nhưng cuộc đời lại chịu nhiều cay đắng, khổ cực. Truyện Kiều là kết chuỗi của những bi kịch nỗi tiếp nhau chồng lên thân phận một con người. Một trong số ấy là bi kịch Kiều phải trao duyên lại cho em gái mình – Thúy Vân, quyết định bán mình cứu cha và em để làm tròn chữ hiếu. 
Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau đi vào tìm hiểu đoạn trích “Trao duyên” để thấy được cái hay của đoạn trích và sự xúc động, đồng cảm của mình với nhân vật đầy bi kịch – Thúy Kiều
b. Triển khai bài dạy:
Hoạt động của GV và HS
Yêu cầu cần đạt
Hoạt động 1
Hỏi: Đoạn trích được trích từ vị trí nào trong truyện Kiều? Nội dung của đoạn trích?
HS: Làm việc cá nhân, phát biểu
GV: Nhận xét, kết luận
GV: Đọc- hướng dẫn HS cách đọc
HS: 2 em đọc.
Hỏi: Đoạn trích có thể chia làm mấy phần? Nội dung của từng phần?
HS: Trao đổi, thảo luận, chia bố cục
GV: Nhận xét, nhấn mạnh
Hoạt động 2
Câu dẫn: Trong đêm cuối cùng trước khi đi theo Mã Giám Sinh, Kiều vẫn canh cánh một món nợ tình với Kim Trọng:
“Nỗi riêng riêng những bàn hoàn
Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn”
Thúy Vân chợt tỉnh giấc ghé đến ân cần hỏi han.
“Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình,
Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh?
Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.”
 Kiều nảy ra ý định trao duyên, trao lại mối tình đầu dở dang cho em mình để trả nghĩa chàng Kim.
Hỏi: Mở đầu đoạn thơ gây cho em ấn tượng gì? Ý nghĩa? 
HS: Làm việc cá nhân, nêu ấn tượng và ý nghĩa, giải thích
GV: Bổ sung, nhấn mạnh
Đối diện với hoàn cảnh thực tại, Thúy Kiều đang đắn đo:
 “Hở môi ra, cũng thẹn thùng 
 Để lòng, thì phụ tấm lòng với ai.”
Nhưng rồi đột ngột yêu cầu Thúy Vân ngồi lên cho mình lạy rồi mới nói tiếp, cử chỉ thật bất ngờ, bất bình thường, ngay cả với Kiều (vì trước đó một giây nàng chưa hề nghĩ tới), cả với Vân (dù tâm hồn nàng đơn giản đến đâu). Bởi cái việc nàng sắp nói vô cùng quan trọng, thiêng liêng, ảnh hưởng cả cuộc đời.
Hỏi: Tại sao Nguyễn Du lại dùng từ “cậy” và “chịu”? Có thể thay thế từ “nhờ và nhận” không? Vì sao? 
HS: Thảo luận, trao đổi, phát biểu
GV: Nhận xét, bình một số ý
- Nguyễn Du dùng cậy mà không dùng nhờ, chọn “chịu” mà không dùng “nhận” bởi vì: giữa các từ ấy có sự khác biết tinh vi.
+ Nếu thay “nhờ” bằng “cậy” không những thanh điệu tiếng thơ nhẹ đi (B- T) mà còn làm giảm đi cái quằn quại, đau đớn, khó nói của Kiều, ý nghĩa hi vọng tha thiết của một lời gởi gắm, trăng trối cũng mất -> “Cậy” và chịu vừa gần gũi, thể hiện được tình chị em ruột thịt, vừa khẩn thiết, quan trọng
+ Nhận: có phần nào tự nguyện,và người nhận có quyền từ chối. Nhưng với từ “chịu” là một thỉnh cầu bắt buộc, không nhận không được! Tình thế của Thúy Vân lúc ấy, chỉ có thể chịu mà thôi.
Hỏi: Sau khi lựa lời đặt em gái vào tình huống tâm sự, Thúy Kiều còn sử dụng các từ “lạy” và “thưa”, em có nhận xét gì về cách dùng từ này?
HS: Suy nghĩ và trả lời
- “Lạy” vì đó là việc nhờ cậy cực kì quan trọng “chị lạy em” sự việc thật bất ngờ, phi lí mà hợp lí biết bao, bởi đây là người chịu ơn, tỏ lòng biết ơn trước sự hi sinh to lớn và cao quý của em mình, hành động đó đầy kính cẩn, trang trọng và cho ta thấy: Thúy Kiều coi em mình là ân nhân số một của đời mình.
– Kiều lạy là lạy đức hy sinh cao cả của Thúy Vân, bởi rồi đây Thúy Vân phải chấp nhận cưới một người không yêu mình:
“Lấy người yêu chị làm chồng,
Đời em thể thoắt một vòng oan khiên”.
GV dẫn: Sau khi Kiều đã mở lời nhờ cậy Thúy Vân thì mười câu thơ tiếp theo là điều cần nói và ước nguyện của Kiều ngay sau thái độ khẩn thiết, yêu cầu ở hai câu trên. Thúy Kiều đưa ra ước nguyện của mình: mong Thúy Vân thay mình nối duyên cùng Kim Trọng, giải thích ngay cho thái độ khẩn khoản, nhún mình, kính cẩn với Thúy Vân rất khác thường ở trên. 
Hỏi: Để Thúy Vân “chịu lời”, Thúy Kiều đã giải bày những điều gì? 
- GV cho HS HS giải thích các điển cố,điển tích theo chú thích sgk.
GV bình: Nguyễn Du thật tài tình như đọc thấu tất cả nỗi lòng nhân vật. Nỗi đau khổ vì không giữ trọn lời đính ước với chàng Kim:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả. Bởi vì không có cách nào khác là phải nhờ em. Bởi chỉ có người thân thiết, ruột thịt mới thấu hết những trăn trở khó nói trong nàng. Đó là gánh nặng tương tư. Thế nhưng “gánh tương tư” đâu có nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây bỗng đứt đoạn, bỗng dở dang. Gánh nặng vật chất thì có thể san sẻ được, nhờ người khác giúp đỡ được, còn gánh nặng tương tư mà nhờ người khác giúp đỡ thì là điều hiếm thấy xưa nay. Vì vậy, Kiều mới phải cậy nhờ em, mới phải lạy, phải thưa, vì hơn ai hết, nàng thấy hiểu nỗi khó khăn, sự tế nhị của gánh nặng này. Rõ ràng, Thúy Vân cũng phải hi sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em.
 Đâu chỉ là gánh nặng tương tư, Kiều còn mang trên đối vai gầy bé nhỏ của mình gánh nặng gia đình khi phải lựa chọn giữa hiếu và tình:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.
 Vốn dĩ “hiếu – tình” là hai phạm trù tinh thần không thể đặt lên bàn cân, vậy mà cái xã hội phong kiến kia lại bắt con người ta lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn, thì đó chẳng phải là cái xã hội bạo tàn sao? Kiều phải cay đắng chọn chữ “hiếu” để rồi phải hi sinh tình yêu một cách đau đớn. Trong lời lẽ có phần khôn ngoan đó người ta cứ thấy lộ ra cái vẻ âu lo. Dường như Kiều phải cố gắng thuyết phục tận tình, tận ý để cho em hiểu.
GV hỏi: Từ đó em hãy cho biết lí do trao duyên cho em ở đây là gì? Tại sao Thúy Kiều lại trao duyên cho Thúy Vân mà không phải là người khác?
GV bình tiếp: Đau đớn biết chừng nào khi cả hai chị em đều “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, vậy mà nàng Kiều lại nói “ngày xuân em hãy còn dài”, phải chăng kể từ lúc này nàng Kiều đã ý thức được cái tương lai không mấy tươi đẹp đang chờ nàng phía trước? Cũng vì thế mà khi hi sinh chữ tình, Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa, cái chết là một kết cục u ám và bi thảm mà nàng luôn nghĩ đến.
GV hỏi: Qua lời thuyết phục của Thúy Kiều, em hãy nhận xét về “lý trí” của nàng lúc này? Cũng qua đây, em cảm nhận được vẻ đẹp gì trong phẩm chất và nhân cách của nàng Kiều?
GV hỏi: Em hãy hình dung tâm trạng của Thúy Kiều khi giãi bày và tìm cách thuyết phục trao duyên cho Thúy Vân?
- GV cho HS khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của 12 câu thơ đầu.
I.Tiểu dẫn:
1. Vị trí của đoạn trích:
- Trích từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều là lời Thuý Kiều nói với Thuý Vân
- Nội dung: là đoạn thơ mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thuý Kiều. Tình huống của Kiều là tình huống trao duyên.
3. Đọc văn bản: 
 Đọc diễn cảm
4. Bố cục: có 3 đoạn
- Câu 1 - câu 12: Thuý Kiều giãi bày lí do, tìm cách thuyết phục để trao duyên cho Thuý Vân.
- Câu 13 - câu 26: Thuý Kiều trao kỉ vật và dặn dò em.
- Câu 27 - câu 34: Thuý Kiều hướng về tình yêu và Kim Trọng.
II. Đọc hiểu văn bản:
1.Thuý Kiều giãi bày lí do, tìm cách thuyết phục để trao duyên cho Thuý Vân: (Câu 1- 12)
Hai câu đầu: Cảnh trao duyên
– “cậy” là giúp đỡ chứ không phải nhờ.
+ Thanh trắc à âm điệu nặng nề gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói.
+ Hàm ý hi vọng tha thiết, có ý tựa nương, gửi gắm, vật nài, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt.
=>“cậy” là thể hiện niềm tin,chỉ có em là người tin cậy nhất. Vì thế, “cậy” có sức nặng của niềm tin hơn.
– “Chịu lời” chứ không phải nhận lời”. Khi nói “nhận lời” là người khác có thể chối từ, còn khi nói “chịu lời” là bắt người mình tin phải nghe theo không thể chối từ.
– “Ngồi lên – lạy- thưa”: là những thái độ của người bề trên hoặc với những người có ơn với mình. Tạo không khí trao duyên trang trọng, thiêng liêng
→ Hàm ẩn sự biết ơn đến khắc cốt ghi tâm. 
Hai câu đầu đoạn trích, ta nhận ra dù trong hoàn cảnh tan nát lòng thì Thúy Kiều vẫn dùng những lời lẽ đoan trang tế nhị, chính xác, chặt chẽ.
10 câu tiếp: lời giải bày và thuyết phục:
“ Giữa đường đứt gánh tương tư
......
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lay”
* Lời giải bày
- Cảnh ngộ của Kiều:
+ “đứt gánh tương tư”: mối tình dở dang, dứt quãng.
+ “mối tơ thừa”: mối tình duyên “Kim-Kiều”; “chấp mối”: Thúy Vân là người nhận lại mối tình dang dở đó -> Cách nói nhún nhường trân trọng vì Kiều hiểu rõ sự thiệt thòi của em.
+ “mặc em”: phó mặt, ủy thác -> vừa có ý mong muốn vừa có ý ép buộc Thúy Vân phải nhận lời.
- Kể vắn tắt về mối tình với Kim Trọng:
+ “Khi gặp chàng Kim”
+ “khi ngày quạt ước”
+ “khi đêm chén thề”
=> Mối tình dang dở, hẹn ước của Kiều với Kim Trọng -> Điệp từ “khi” nhắc mạnh tình yêu sâu nặng gắn bó bền chặt với Kim Trọng
+ “sóng gió bất kì”: tai họa ập đến gia đình nàng.
+ “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”: Sự lựa chọn giữa hiếu và tình.
=> Mong Vân hiểu mà nối duyên trả nghĩa cho Kim Trọng.
Lí do trao duyên cho em: 
+ Mối tình dang dở của Kim – Kiều -> muốn em là người “chắp mối”.
+ Giữa tình và hiếu, Kiều đành chọn cách hi sinh tình cho hiếu.
-> Nhờ cậy Thúy Vân để trao duyên vì tình chị em, máu mủ, ruột rà mới có thể dễ dàng chia sẻ cảm thông. Đây mới là lí lẽ cơ bản và duy nhất.
* Lời lẽ thuyết phục Thúy Vân:
- “ngày xuân”: Thúy Vân còn trẻ, còn có tương lai.
- “xót tình máu mủ”: Tình chị em, tình ruột thịt thiêng liêng.
- “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”: Nàng tưởng tượng đến cái chết của mình để gợi sự thương cảm ở Thúy Vân.
=> Sử dụng thành ngữ, ngôn ngữ chọn lọc, chính xác, độc đáo, có sự kết hợp của cách nói của văn chương quý tộc và ngôn ngữ bình dân.
- Lí trí làm chủ tình cảm.
-> Thúy Kiều là người sắc sảo, tinh tế, thông minh bên cạnh đó nàng là một người con hiếu thảo, có đức hy sinh và lòng vị tha và là một người nặng tình, nặng nghĩa.
=> Tâm trạng của Kiều khi giãy bày và tìm cách thuyết phục trao duyên cho em: Biết ơn chân thành, yên tâm, thanh thản, nhẹ người đi vì vấn đề nặng như núi cơ hồ đã được giải quyết. Thúy Kiều đặt lý trí lên trên tình cảm của mình.
* Tiểu kết:
- Nội dung: 12 câu thơ đầu là lời nhờ cậy, giãi bày, thuyết phục của Thúy Kiều với Thúy Vân trước một sự việc hệ trọng mà nàng sắp thực hiện.
- Nghệ thuật:
+ Ngôn ngữ của Nguyễn Du có sự kết hợp hài hòa giữa cách nói trang trọng, văn hoa và giản dị. 
+ Sử dụng các điển tích: keo loan, tơ duyên đi đôi với các thành ngữ: “tình máu mủ”, “lời nước non”, “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”
=> Làm cho lời giãi bày và thuyết phục của Thúy Kiều chạm đúng vào niềm thương cảm và lay động được lòng trắc ẩn của Thúy Vân trong đêm trao duyên.
 Qua đó thấy được sự chính xác, tinh tế trong cách sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng nhân vật của Nguyễn Du.
(Hết tiết 1)
 Củng cố: GV gọi Hs đọc lại đoạn thơ và khái quát những ý chính để củng cố bài học.
Dặn dò: Học bài- chuẩn bị tiếp tiết 2 của đoạn trích “Trao duyên”
 RÚT KINH NGHIỆM
Tiết 2 Bài TRAO DUYÊN
Hoạt động của GV và HS	
Yêu cầu cần đạt
Hoạt động 2
Hỏi: Sau khi thuyết phục em, Thúy Kiều trao kỉ vật của tình yêu cho Thúy Vân, vậy đó là những kỉ vật gì? Những kỉ vật đó có ý nghĩa như thế nào đối với Kiều?
- HS theo dõi văn bản, suy nghĩ, trả lời.
GV hỏi: Trong lúc trao kỉ vật, Kiều dặn dò Vân những gì? Lời dặn dò đó của Kiều cho em thấy tâm trạng của Kiều như thế nào? Có gì mâu thuẫn trong lời dặn dò đó?
(Trong quá trình giảng giải, phân tích GV hỏi thêm: Em hiểu thế nào là “duyên này” và “của chung”?)
HS suy nghĩ, trả lời.
GV bình: Khủng hoảng tạm lắng, nuốt nước mắt vào trong, Kiều trao lại cho Vân kỉ vật, những của tin - vật làm tin – giữa Kim và Kiều hồi hai người đính ước. Chiếc thoa này là kỉ niệm khởi đầu giao duyên. Tờ hoa tiên (tờ mây) này ghi lời thề ướcThế nhưng những kỉ vật ấy bây giờ trở thành “của chung”. Hai chữ “của chung” chất chứa bao đau xót. Trước đây nó là của chàng và chị, nay còn là của em. Kỉ vật tình yêu chỉ thiêng liêng khi nó là tín vật, là nhân chứng thầm kín của riêng hai người thôi. Còn bây giờ, từ bây giờ, nó đã thành của chung! Nhưng câu thơ còn giấu trong nhịp điệu của nó một nỗi đau sâu kín của nàng Kiều. Điệp từ “này” như dằn lòng, như dang dở. Lý trí đã quyết định trao duyên, trao kỷ vật, song tình cảm vẫn cố trì hoãn, níu giữ. Vì thế mà cái động thái trao kia cứ dùng dằng. Kỷ vật lìa khỏi tay người như cũng vật vã không yên. Cố dằn lòng mà không thể cầm lòng!
GV hỏi tiếp: “của chung” thì có thể trao cho em, còn “của tin” liệu có thể trao cho em được hay không? (GV gợi mở bằng cách cho HS lí giải thế nào là “của tin”) 
 HS suy nghĩ và lí giải.
GV hỏi: Em hãy hình dung tâm trạng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật cho em? 
GV hỏi: Trong đoạn thơ tiếp theo (từ câu 19 đến câu 26), những từ ngữ, hình ảnh nào gây cho em nhiều ấn tượng nhất? Vì sao? ( GV giải thích một số từ ngữ khó trong mục 1 đến mục 6, SGK trang 105)
GV hỏi tiếp: Em cảm nhận được gì trong nhịp điệu thơ ở đây? Giá trị biểu đạt của nhịp điệu đó trong việc thể hiện tâm trạng của Thúy Kiều.
GV phân tích: Tự coi mình là người bất hạnh, Thúy Kiều trăn trở và tiếc nuối mối tình đầu trong trắng với những hẹn thề chưa thể thưc hiện được và nghĩ mình là người chết oan, cho nên ngôn ngữ nói như nửa tỉnh, nửa mê: hiu hiu, hương khói, ngọn cỏ, lá câymà thực sự là tâm trạng đớn đau dằn vặt khôn nguôi. 
GV hỏi: Đoạn thơ có sự thay đổi như thế nào về ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trữ tình?
GV hỏi: Đang sống ở hiện tại, nhưng Kiều lại nghĩ đến cái chết trong tương lai, điều này có ý nghĩa gì?
GV chuyển ý: Ngôn ngữ nửa mê nửa tỉnh của Thúy Kiều thực chất là biểu hiện của trạng thái tiếc nuối và đớn đau vô hạn. Từ mộng mị của tương lai mờ mịt, Thúy Kiều trở lại với thực tại đau xót. Những dấu hiệu nghệ thuật nào cho thấy điều đó? (GV gợi mở bằng cách cho HS tìm từ ngữ, thành ngữ..)
- GV liên hệ, so sánh với hình ảnh hoa dạt, bèo trôi trong văn học 
GV bình: Từ tương lai, từ cõi chết, cõi âm mịt mờ quay về hiện tại thảm khốc, Kiều vẫn quanh quẩn với nỗi đau mất mát, không thể hàn gắn: tram gãy, bình tan. Thân phận của nàng cũng bạc bẽo, trôi nổi. Tất cả như đẩy nàng rơi sâu thêm vào nỗi đau tuyệt vọng để rồi nàng thảng thốt kêu lên tiếng kêu đau đớn:
 “Ôi Kim Lang hỡi Kim Lang/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
GV bình: Xác định được thực tại oan nghiệt, Thúy Kiều dành tâm sự tâm sự hướng về Kim Trọng và than thân trách phận. Đau xót vì “tơ duyên ngắn ngủi” và “phận bạc” như vôi, Thúy Kiều trút cả bầu tâm sự về phía người yêu, vừa như cầu xin tạ lỗi, vừa như lời vĩnh biệt. Hai câu cuối như thảng thốt không thể kìm nén. Có điều đặc biệt là đến đây dường như có Thúy Vân trước mắt, đó chính là đỉnh điểm của sự đau xót.
Hoạt dộng 3: Tổng kết.
GV kết lại: Đoạn trích thuộc đề tài truyền thống: tình yêu tan vỡ. “Trăm năm đành lỗi hẹn hò/ Cây đa bến cũ con đò khác đưa”; “Tóc mai sợi ngắn, sợi dài/ Lấy nhau chảng đặng, thương hoài ngàn năm”... Nguyễn Du đã thể hiện thành công bằng tài năng và tấm lòng nhân đạo sâu sắc.
HS lắng nghe
II. Đọc hiểu văn bản: (tiếp)
2. Tâm trạng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò em. ( 14 câu thơ tiếp theo từ câu 13 đến câu 26):
* 6 câu thơ đầu (từ câu 13 đến câu 18).
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
- Trao kỉ vật: “Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền” 
-> Những kỉ vật thiêng liêng của Kiều với Kim Trọng.
- Lời dặn dò 1: “Duyên này thì giữ” >< “vật này của chung”:
+ “Duyên này”: tình riêng của Kiều với Kim Trọng.
+ “Của chung” -> của Kim, Kiều.
 -> Nay còn là của Vân.
-> Tâm trạng Kiều đầy mâu thuẫn:
+ Khẩn khoản van nài Vân thay mình lấy Kim Trọng.
+ Trao kỉ vật lại thấy mình cũng có một phần trong đó.
=> Kiều cố níu giữ kỉ vật như một sự an ủi về tinh thần à Tiếc nuối, đau đớn.
=> Kiều chỉ có thể trao duyên (nghĩa) nhưng tình không thể trao. Câu thơ hàm ý sự đau xót của Thúy Kiều khi phải chia tay với kỉ vật của tình yêu.
+ “Của tin”: phím đàn, mảnh hương nguyền à những kỉ vật gắn bó, chứng giám tình yêu của Kim Kiều trong đêm trăng thề nguyền. Do vậy, “của tin” không còn là phạm trù vật chất nữa mà đã trở thành một phạm trù tinh thần, kết nối yêu thương, sự tin tưởng của hai người dành cho nhau.Dù ngay bây giờ thôi, “mất người” – mất đi hạnh phúc lứa đôi- Thúy Kiều vẫn còn “của tin” – tình cảm thiêng liêng – mà nàng giữ lại cho mình.
=> Cử chỉ thì trao kỉ vật, nhưng tâm trạng là một cuộc chia ly vĩnh biệt với mối tình đẹp đẽ đầy ắp những kỉ niệm yêu đương: làn hương, tiếng đàn. Tâm hồn đồng diệu dường như còn thổn thức cho nên nói với Thúy Vân lại như nói với chính mình.
* 8 câu thơ tiếp theo ( Từ câu 19 đến câu 26)
“Mai sau dù có bao giờ
......
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
- Lời dặn dò 2:
+ Từ ngữ giả định: “mai sau”, “dù có”
-> Kiều tưởng tượng về cảnh ngộ của mình trong tương lai.
+ Hình ảnh “lò hương”, “ngọn cỏ lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “người thác oan”,...-> Gợi ra cuộc sống cõi âm đầy ma mị.
+ Nhịp diệu: Chậm rãi, tha thiết, nghẹn ngào, tức cười-> như tiếng khóc não nùng, cố nén lại để không bậc lên thành lời.
=> Kiều tưởng tượng cảnh mình chết oan, chết hận. Hồn tả tơi bay vật vờ trong gió, không sao siêu thoát được bởi trong lòng nặng lời thề ước với Kim Trọng.
- Vẫn đang nói với Vân, đang dặn dò và tâm tình cùng em, nhưng hình như càng dần quên sự có mặt của em mà chỉ tự nói với mình.
=> Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật
=> Đang sống mà nói đến cái chết thể hiện nỗi đau tột cùng của Kiều.
3. Thuý Kiều hướng về tình yêu và Kim Trọng (8 câu cuối):
- Ý thức về hiện tại: Bây giờ
+ Trâm gãy bình tan.
+ Phận bạc như vôi.
+ Nước chảy, hoa trôi.
"Những thành ngữ chỉ sự tan vỡ, dở dang, bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên và số phận con người.
- Hàng loạt các câu cảm thán:
"tình yêu mãnh liệt thể hiện sự chia biệt vĩnh viễn.
-> Nỗi đau đớn, tuyệt vọng đến mê sảng.
- “Người mệnh bạc”(phần trên) ->người phụ bạc.
- “Lạy” (lạy tình quân) ->tạ lỗi.
 ->vĩnh biệt.
- Hai lần gọi tên Kim Trọng -> Tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.
-> Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác "đức hi sinh cao quý.
=> 8 câu cuối, Kiều chuyển hẳn sang độc thoại nội tâm mang tính chất đối thoại với người vắng mặt (Kim Trọng). Hàng loạt các câu cảm thán gợi tình yêu mãnh liệt nhưng sự chia biệt là vĩnh viễn. Bi kịch càng lên cao, Kiều càng đau đớn, tuyệt vọng đến mê sảng, quên cả ý tứ để chuyển sang nói với người vắng mặt là chàng Kim.
=> Thúy Kiều từ chỗ nhận mình là người mệnh bạc, giờ lại tự nhận là người phụ bạc chàng Kim. Vì vậy, đang độc thoại, nàng quay sang đối thoại tưởng tượng với Kim Trọng, gọi tên chàng trong đớn đau đến mê sảng. Cái lạy ở đây khác với cái lạy ở phần đầu. Kiều nhận tất cả lỗi về mình nhưng nào nàng có lỗi gì đâu!... Những dòng tiếp đoạn trích này, chúng ta còn thấy nàng đau đớn , tuyệt vọng đến ngất đi: “Cạn lời hồn ngất máu say/ Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng”...
III. Tổng kết:
* Nội dung:
Đoạn trích đã thể hiện rõ tâm trạng đau xót cực độ của Thuý Kiều khi phải đứt ruột trao mối duyên tình. Ở Kiều , tình và hiếu thống nhất chặt chẽ.
* Nghệ thuật:
- Miêu tả, phân tích tâm lí, tâm trạng phức tạp, mâu thuẫn của Kiều: tinh tế, chân thực, linh hoạt.
- Chất trữ tình và chất bi kịch.
3. Củng cố: 
 a. Đoạn trích mang nhan đề “Trao duyên” nhưng cuối cùng có trao duyên được không? Tại sao đoạn này được gọi là một bi kịch?
 b. Cái thần của đoạn thơ ở đâu?
Gợi ý: - Duyên đã trao được vì Thúy Vân đã nhận, nhưng TY của Kiều không thể trao được.
 - Đoạn thơ là một bi kịch vì mâu thuẫn nội tâm nhân vật càng lúc càng căng thẳng, cuối cùng
 dẫn đến bế tắc, bi đát.
	- Cái thần của đoạn trích: Trao duyên mà chẳng trao được tình! Đau khổ vô tận! Cao đẹp vô
 ngần! (Lòng vị tha, đức hi sinh)
4. Dặn dò: Học bài- chuẩn bị đoạn trích: Nỗi thương mình
VI. RÚT KINH NGHIỆM

Tài liệu đính kèm:

  • docxgiao_an_ngu_van_lop_10_tuan_29_trao_duyen_trich_truyen_kieu.docx