Phân tích 12 câu đầu trong đoạn trích “Trao duyên” (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Phân tích 12 câu đầu trong đoạn trích “Trao duyên” (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

“Con thuyền” chở đầy những khát khao và hi vọng của con người ta từ bao đời nay - con thuyền chứa đựng tinh hoa của nền văn học trung đại Việt Nam. Từ thời xa xưa, trôi theo dòng chảy văn học, người đương thời luôn mang trong mình một nỗi niềm cảm thương sâu sắc đối với những số phận bất hạnh của cuộc đời, của người phụ nữ bị dòng đời thị phi rẻ rúng. Và trên con thuyền ấy, một trang sách được mở ra, bỏ qua mọi định kiến của xã hội bộn bề, dẫn dắt lữ khách đến với bến bờ của chân lý cuộc đời. Thi tập của Nguyễn Du chính là nguồn sống để chữa lành vết thương ấy, ông tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê làng Tiên Điền,huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong 1 gia đình phong kiến quý tộc và sống trong 1 giai đoạn lịch sử đầy biến động. Nguyễn Du đã từng chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. “Đem bút mực tả lên trên tờ giấy nào những câu vừa lâm ly, vừa ủy mị, vừa đốn tỏa, vừa giải thư, vẻ hệt ra người tài mệnh trong mười mấy năm trời.” - Phong Tuyết. Nơi đó, có “Truyện Kiều” là một trong những áng thi đặc sắc được người đời lưu danh mãi đến hậu thế. Khắc họa nên bức tranh gần gũi với chủ đề sáng tạo dựa trên nền tảng nhân đạo chủ nghĩa, thể loại truyện thơ. Người thi nhân như đã tạo nên một kiệt tác độc nhất vô nhị của nền văn học trung đại Việt Nam. Song với chủ đề cảm thương cho thân phận bạc mệnh đáng thương của người phụ nữ. Đoạn trích “Trao duyên” mà cụ thể là 12 câu đầu trong đoạn trích đã thể hiện rõ nét tâm trạng của Kiều lúc này. Tài sắc vẹn toàn nhưng Kiều lại phải chịu quá nhiều bất hạnh. Nỗi bất hạnh đầu tiên ập đến trong cuộc đời của Kiều đó là phải bán mình chuộc cha, phải từ bỏ mối lương duyên chỉ vừa mới chớm nở cùng Kim Trọng. Một bài thơ bi cảm được thể hiện qua từng câu, từng chữ, nó mang đến một nỗi xúc động khôn nguôi cho người đọc:

"Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,

Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."

 

docx 5 trang yunqn234 18460
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích 12 câu đầu trong đoạn trích “Trao duyên” (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
	Đề: Phân tích 12 câu đầu đoạn trích “Trao duyên” (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Bài làm:
“Con thuyền” chở đầy những khát khao và hi vọng của con người ta từ bao đời nay - con thuyền chứa đựng tinh hoa của nền văn học trung đại Việt Nam. Từ thời xa xưa, trôi theo dòng chảy văn học, người đương thời luôn mang trong mình một nỗi niềm cảm thương sâu sắc đối với những số phận bất hạnh của cuộc đời, của người phụ nữ bị dòng đời thị phi rẻ rúng. Và trên con thuyền ấy, một trang sách được mở ra, bỏ qua mọi định kiến của xã hội bộn bề, dẫn dắt lữ khách đến với bến bờ của chân lý cuộc đời. Thi tập của Nguyễn Du chính là nguồn sống để chữa lành vết thương ấy, ông tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê làng Tiên Điền,huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong 1 gia đình phong kiến quý tộc và sống trong 1 giai đoạn lịch sử đầy biến động. Nguyễn Du đã từng chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. “Đem bút mực tả lên trên tờ giấy nào những câu vừa lâm ly, vừa ủy mị, vừa đốn tỏa, vừa giải thư, vẻ hệt ra người tài mệnh trong mười mấy năm trời...” - Phong Tuyết. Nơi đó, có “Truyện Kiều” là một trong những áng thi đặc sắc được người đời lưu danh mãi đến hậu thế. Khắc họa nên bức tranh gần gũi với chủ đề sáng tạo dựa trên nền tảng nhân đạo chủ nghĩa, thể loại truyện thơ. Người thi nhân như đã tạo nên một kiệt tác độc nhất vô nhị của nền văn học trung đại Việt Nam. Song với chủ đề cảm thương cho thân phận bạc mệnh đáng thương của người phụ nữ. Đoạn trích “Trao duyên” mà cụ thể là 12 câu đầu trong đoạn trích đã thể hiện rõ nét tâm trạng của Kiều lúc này. Tài sắc vẹn toàn nhưng Kiều lại phải chịu quá nhiều bất hạnh. Nỗi bất hạnh đầu tiên ập đến trong cuộc đời của Kiều đó là phải bán mình chuộc cha, phải từ bỏ mối lương duyên chỉ vừa mới chớm nở cùng Kim Trọng. Một bài thơ bi cảm được thể hiện qua từng câu, từng chữ, nó mang đến một nỗi xúc động khôn nguôi cho người đọc:
"Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."
Đoạn trích tái hiện hoàn cảnh sau khi thu xếp xong việc bán mình để cứu cha và em “Tờ hoa đã kí, cân vàng mới trao''. Ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh ra đi. Đêm ấy, Kiều ngồi trắng đêm suy nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi bồi hồi thương cho chàng Kim, tìm cách trả nợ tình cho chàng:	
“Nỗi riêng riêng những bàn hoàn,
 Dầu chong trắng đĩa, lệ tràng thấm khăn".
Nhân lúc Thúy Vân thức dậy hỏi han bây giờ Kiều mới nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đoạn trích có vai trò quan trọng như một bản lề khép mở hai phần đời đối lập của Kiều là hạnh phúc và đau khổ. Không chỉ thương chị, Thúy Vân còn rất hiểu lòng chị, có lẽ vì vậy mà chuyện tình duyên vốn dĩ rất khó trao, khó nhận nhưng đã được Thúy Kiều thuyết phục một cách rất thấu tình đạt lí để mở đầu cho cuộc trao duyên đầy đau đớn. Đó cũng chính là một lời gửi duyên phận của mình cho người khác, nhờ họ thay mình tiếp tục một mỗi duyên dang dở, và đó cũng chính là ý nghĩa cho nhan đề “Trao duyên”.
	Với lời mở đầu, lời giải bày tâm trạng của Kiều khi “Trao duyên” khiến khó hiểu bất thường, nhưng lại hết sức thông minh và sắc sảo:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Trong tình thế khó xử:
 “Rằng lòng đương thổn thức đầy
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong”
Chính vì thế mà mở đầu cuộc trao duyên Kiều phải lựa chọn một cách nói, một cách xưng hô đặc biệt. Bởi vậy Kiều không nói “nhờ em” mà lại nói “cậy em”. Bởi vì chữ “cậy” bao hàm cả niềm hi vọng thiết tha của 1 lời trông cậy có ý nghĩa, nương tựa tin tưởng mối quan hệ ruột thịt gửi gắm nỗi khẩn khoản thiết tha. Kiều nói "em có chịu lời" chứ không nói " em có nhận lời " bởi lí do từ chịu lời mang sắc thái bắt buộc, Vân khó có thể từ chối. Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy” cả. Kiều đã tạo một bầu không khí trang nghiêm, trịnh trạng vừa tình vừa lẽ buộc Thúy Vân không thể không nhận lời.Với cách dùng từ khéo léo và sắc thái chỉ qua hai câu đầu, Nguyễn Du đã mở đầu cuộc Trao Duyên đầy hồi hộp trang trọng đồng thời thể hiện đc hoàn cảnh éo le tâm trạng khẩn thiết bế tắc của Kiều. Qua đó có thể thấy được tình yêu sâu sắc, chân thành của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Và càng thấy cái nghĩa cái tình của của Thúy Kiều và Kim Trọng nó lớn biết nhường nào. Vừa cảm thấy có lỗi với người em gái, vừa cảm thấy xót xa cho số phận của mình. Kiều đã dùng lễ nghi lạy trước thưa sau, thay đổi ngôi của hai người để ràng buộc Thúy Vân. Để cái tình của mình trao lại cho em. Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:
“Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”
Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Câu thơ là sự giải bày cho em biết là cuộc tình của chị bây giờ đành dang dở "đứt gánh tương tư". Cuộc tình của Kiều vừa mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió đang ập đến. “Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Nàng đã mượn điển tích "keo loan" để nói lên ý định muốn Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ thừa”. Có thể nói mối tình của Kiều Và Kim Trọng đang đến đoạn say đắm nhất, nồng nàn nhất thì cơn gia biến ập đến với Kiều, vì thế Kiều đành phải phó thác cho em, vì Kiều cũng rất thấu hiểu cảm giác thiệt thòi của em: "Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em". Từ “mặc” ở đây không phải nghĩa là mặc kệ, mà nó như là một sợi dây ràng buộc, Kiều đành phó mặc cho em dang dở gánh vác, chắp mối nghĩa tình sâu nặng của mình. Có thể nói lời Kiều mang giọng điệu sắc thái dứt khoác, nghiêm trang và mang nhiều sức nặng nhưng cũng rất nghẹn ngào đau xót.
Những kỉ niệm ngọt ngào như ùa về trong lòng, nàng đành bày tỏ tâm sự cùng em:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”
Có thể nói sự trùng điệp của ba từ:" khi gặp- khi ngày - khi đêm " kết hợp với các sự kiện thời gian đã nói đến sự thề ước sâu nặng không thể nuốt lời, càng khẳng định tâm trạng bế tắc của Kiều, nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng, đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Câu thơ đã liệt kê ra những kỉ niệm tuyệt đẹp của Thúy Kiều và Kim Trọng, nơi hai người cùng nhau thề nguyện trước trăng:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.”
Những kỉ niệm cùng quạt ước, cùng nâng chén rượu thề nguyện, chúng ta dễ dàng nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng sống động đang diễn ra của đôi uyên ương. Câu thơ tuy chứa đựng tình cảm ngọt ngào nhưng đau đớn thay những kỉ niệm ấy sẽ kết thúc, chỉ còn chuỗi ngày thảm thiết về sau:
"Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."
“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều lại bị án oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Hoàn cảnh trái ngang, cha và em mắc oan bị bắt, nàng phải bán thân mình mới cứu được họ, nhưng người nàng yêu, một lòng vì nàng, lời thề nguyện mới hôm nào chưa kịp nguội. Nhìn cảnh cha và em bị tra tấn, đòn roi, là một người con có hiếu, nàng đành hi sinh tình yêu để làm trọn phận con, để báo đáp công ơn. Mối tình Kim Trọng - Thúy Kiều đang mặn nồng cơn gia biến ập đến Kiều buộc phải hi sinh chữ tình vì "chữ hiếu", bởi lẽ giữa “hiếu” và “tình”, nàng chỉ có thể chọn một, thậm chí có là hi sinh cả tấm thân trong trắng ngọc ngà của mình để cứu cả gia đình:
“Đệ lời thề hải minh sơn
Là con trước phải đền ơn sinh thành”
Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế! Kiều đã nói ra cái cái lí của mình và hi vọng em sẽ thấu hiểu tâm trạng bi kịch của mình và chấp nhận lời yêu cầu ngang trái đó. Tám câu thơ đầu ngoài lời trao duyên thì Kiều cũng đã khơi gợi được sự đồng cảm từ nơi Vân, sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:
“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Nàng dùng tình máu mủ, nàng dùng đến cái chết để thuyết phục. Nguyễn Du đã dùng các thành ngữ để giúp nàng Kiều thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em chấp nhận yêu cầu. Từ "ngày xuân" mang tính ước lệ có ý chỉ tuổi trẻ của người con gái, Kiều muốn nói tuổi trẻ của em còn dài, và vì "tình máu mủ" giữa chị và em mà thay lời nước non giúp chị. Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Thúy Kiều kêu gọi tình chị em máu mủ thiêng liêng, khơi dậy ở người em đức hi sinh và lòng vị tha vì người thân. Nếu được mãn nguyện thì dẫu Kiều chết đi dưới chín suối cũng hả dạ vì có được tiếng thơm là người có tình có nghĩa. Nhưng nàng Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, lấy lí trí khống chế tình cảm nhưng những lí lẻ lại nhuốm màu tình sầu. Buồn vì mình đã làm thiệt thòi cho Vân, nhưng chính cách viện lí do dẫn đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến Vân không thể chối từ. Có thể nói đây là cách duy nhất để vẹn lý, vẹn tình. Đây cũng có thể là một lời trăn trối của nàng, mà ắt hẳn cả chúng ta cũng không thể nào nhẫn tâm từ chối yêu cầu đó. Nghe những lời xót xa đó, hẳn sẽ khiến nàng Vân càng thêm yêu quý chị mình. Người nhận có ba lí do không thể khước từ, trước hết Kiều và Vân không cách nhau về tuổi tác, thứ hai lại càng thuyết phục hơn khi Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng ai nhờ vả bao giờ thì đến lí do thứ ba lại vang lên như một lời khẩn cầu đầy chua xót. Đã khó nhờ, khó nhận thì chỉ có tình cảm chị em máu mủ mới dễ dàng đồng cảm chấp nhận cho nhau. Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn đối với nàng. Ngôn ngữ có sự kết hợp hài hòa giữa cách nói trang trọng và cách nói dân gian. Ta càng thấy được Thúy Kiều là người sắc sảo, tinh tế, thông minh, hiếu thảo, có đức hi sinh và lòng vị tha. Thành ngữ “tình máu mủ”, “lời nước non”, “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” nhằm tăng sức thuyết phục cho lời thỉnh cầu.
Thể thơ lục bát đã giúp cho Nguyễn Du dễ dàng khắc họa tâm trạng dằn vặt, sự đớn đau khi phải hi sinh chữ tình để vẹn tròn chữ hiếu của Thúy Kiều. Nàng đã được ông tô vẽ lên thật đẹp đẽ trong lòng người đọc. Ngôn ngữ của Nguyễn Du có sự kết hợp hài hòa giữa cách nói trang trọng, văn hoa và giản dị, nôm na của cách nói dân gian. Sử dụng các điển tích: keo loan, tơ duyên đi đôi với các thành ngữ: tình máu mủ, lời nước non, thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối Làm cho lời giãi bày và thuyết phục của Thúy Kiều chạm đúng vào niềm thương cảm và lay động được lòng trắc ẩn của Thúy Vân trong đêm trao duyên. Qua đó thấy được sự chính xác, tinh tế trong cách sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng nhân vật của Nguyễn Du. Một cô gái quá đỗi mong manh nhưng rất mạnh mẽ. 
Đoạn trích đã bộc lộ nỗi đau tình yêu và số phận bi kịch của nàng Kiều, qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của Nguyễn Du, nỗi đau và cả vẻ đẹp tâm hồn của Kiều, một người con gái tài sắc hiếu nghĩa vẹn toàn đã được thể hiện một cách tinh tế và tỏa sáng lấp lánh. Nhờ sự trải nghiệm và cái nhìn sâu sắc cùng khả năng sử dụng từ điêu luyện của Nguyễn Du đã khiến cho nội tâm của nhân vật như được khắc họa rõ nét nhất, từ nỗi đau đến tâm hồn của Kiều như đang trải dài qua từng câu chữ. Khiến người đọc như chứng kiến tận mắt cảnh trao duyên chứ không phải được nghệ thuật lại cảnh này.
“Trao duyên” như một lần nữa khẳng định sự tồn tại của người con gái, ví như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:
“Hai thế kỷ đi qua trên nấm đất
Mấy kiếp người, mấy cuộc bể dâu.
Đời nay đẹp gấp trăm lần thuở trước
Giở trang Kiều còn rung động ý thơ.
Thơ Người mãi sống cùng đất nước
Dù mai sau dù có bao giờ...”
-“Hoàng Trung Thông-

Tài liệu đính kèm:

  • docxphan_tich_12_cau_dau_trong_doan_trich_trao_duyen_trich_truye.docx